Địa chỉ: 38 Trương Quốc Dung, Phường 8, Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
|Email: info@nhathanhpho24h.com
Hotline: 09811 78617
09/01/2025
10/05/2022
12/12/2019
28/11/2019
27/11/2019
27/11/2019
27/11/2019
27/11/2019
27/11/2019
Tướng thuật cổ đại của phương Đông lấy con người làm đối tượng quan sát cơ bản. Từ lý luận, tất cả hình tướng của con người đều thuộc phạm vi quan sát của các nhà tướng thuật. Tướng người không chỉ là tướng mặt, đầu, tay chân của cơ thể người mà còn bao gồm hình thần, khí sắc, giọng nói với một hệ thống lý luận đồ sộ.
Phạm vi, trình tự, các bước quan sát của tướng thuật cổ đại
Phạm vi quan sát của tướng thuật cổ đại được mở rộng không ngừng theo sự phát triển của nó. Như phạm vi quan sát cơ bản trong Tướng pháp thập lục thiên của Hứa Phụ đầu đời Hán chỉ dừng lại ở 14 vị trí trên cơ thể và 2 vấn đề thanh và hình, đến Liễu Trang thần tướng của Viên Củng đời Thanh đã chủ trương xem tướng bao gồm các yếu tố trên cơ thể như: Đầu, tóc, lông mày, mắt, tai, mũi, răng, râu, gáy, chẩm, lưng, vú, bụng, rốn, eo, chân, tay, lông, nốt ruồi, xương, âm thanh, da, máu (khí sắc), vết lốm đốm, điểm, âm nang, ngọc hành, cốc đạo, cánh tay, mông, Nhân trung, chẩm cốt, tiểu tiện, tóc mai, lưỡi. Sự phân chia lúc này đã chi tiết, về cơ bản bao gồm toàn bộ phạm vi quan sát của tướng thuật cổ đại.
Với nội dung hình thể phong phú, chi tiết như vậy các nhà tướng thuật cổ đại bắt đầu như thế nào? Đối với họ thì hình thể là một chỉnh thể thống nhất hữu cơ, dần dần tổng kết phương pháp xem tướng cơ bản từ thực tiễn, bao gồm trình tự và các bước quan sát. Họ cho rằng, xem tướng trước tiên cần xem cốt cách, cũng chính là xem đặc trưng xương cốt của một người. Bởi vì sang hèn quyết định bởi xương, đặc trưng xương cốt có thể thể hiện xu thế vận mệnh của một người. Sau đó xem đến quan hệ thuận lợi hình tướng Ngũ hành, rồi lại xem độ dài ngắn của Tam đình. Tam đình chính là khái niệm tướng pháp và phán đoán vận mệnh bằng cách phân mặt thành 3 phần. Cơ sở phán đoán từ mặt, trước khi xem cần quan sát những vị trí này. Sau khi quan sát xong Tam đình thì nắm bắt đặc trưng cơ bản của mặt. Tiếp theo mới đến các vị trí cụ thể như mặt, mày và mắt, chân và tay, râu tóc, thân hình, Ngũ quan. Tất cả những bộ vị này và tình trạng của chúng đều có thể dựa vào hành vận và hình thái của cốt cách mà dự đoán. Do đó, có thể thấy phương pháp xem tướng cơ bản tổng kết ở đây là quá trình từ tổng thể đến cục bộ, từ vĩ mô đến vi mô.
Xem tướng mặt là thuật xem tướng cổ xưa nhất của Trung Quốc, cũng chính là thuật xem tướng quan trọng nhất. Các nhà tướng thuật xưa cho rằng, mặt của con người ứng với Tam tài, với Ngũ nhạc. Do đó, các thuật sỹ đều coi quan sát mặt là công phu cơ bản nhất.
Như vậy làm thế nào để phán đoán cát hung thiện ác của tướng mặt? Các nhà tướng thuật xưa tổng kết ra một phương pháp cơ bản và họ cho rằng Ngũ nhạc, Tứ độc trên mặt như 2 xương gò má, trán, mũi đều cần hướng lên và gọn, các vị trí của Tam đình cần đầy đặn, hình mạo đoan chính, tinh thần thanh tú, tâm khí bình hòa mới là yếu tố cơ bản của tướng phú quý. Nếu xuất hiện tình trạng hình mạo không đoan chính, sắc mặt u tối là tướng bần tiện. Nhìn từ sắc mặt nếu trắng sáng như ngọc hoặc đen sáng như sơn hoặc vàng sáng như hạt thóc chín hoặc tía như lụa đỏ thì đều thuộc tướng cát lợi. Mà sắc mặt như lửa, như phủ bụi hoặc vì tức giận mà thành sắc xanh đều thuộc tướng bần khổ và đoản mệnh. Trán, 2 xương gò má trên mặt nhô lên như hình dạng 3 gò nhô cao, nam sẽ khắc hại con cái, nữ sẽ khắc hại chồng và bần cùng hạ tiện. Mặt như trăng tròn, thần thái toả sáng như mặt trời thì nam có thể làm công hầu, nữ có mệnh sang quý. Da mặt dày, bản tính chất phát sẽ giàu có. Da mặt mỏng, tính tình nhanh nhạy sẽ khốn cùng. Thân hình béo mập mà mặt gầy thì thọ lâu, tính tình hiền hòa. Thân hình gầy mà mặt béo sẽ thọ không lâu, tính tình nóng vội. Màu sắc da trên mặt trắng mà cũng vậy da trên người đen thì tính tình thay đổi thất thường, địa vị thấp hèn. Da mặt đen mà da thân mình trắng là người cẩn trọng, mệnh phú quý.
Xem tướng tay là một thuật xem tướng xa xưa, mức độ phức tạp của nó dường như có thể tương đương với tướng mặt. Độ to nhỏ, dày mỏng của bàn tay, độ dài ngắn, to nhỏ của nắm tay tương quan giữa các ngón tay, đường vân tay đều liên quan đến nhiều học thuyết mệnh lý.
Các nhà tướng thuật cho rằng, tay bên ngoài nối với tứ chi, trong nối với nội tạng, dự báo được mất. Do đó từ tướng tay tốt xấu có thể đoán được thọ yểu, quý tiện, hiền ngu. Trong các điển tập tướng thuật cổ xưa có nhiều luận thuật về tướng tay, phần lớn dựa vào các vị trí trên tay để luận. Dường như đôi tay hàm chứa toàn bộ ý nghĩa cuộc đời và sự thăng trầm chủ yếu trong vận mệnh. Lấy hình tay để luận thì thường cho rằng tác dụng của tay là “giữ” và “cầm”. Do đó cho rằng, người có tay dài thanh mảnh có tính tình lương thiện, thích cho đi. Người có tay dày ngắn tính tình keo kiệt. Thân người nhỏ tay to thì phúc thọ, người có thân to tay nhỏ bần cùng và đoản mệnh. Người có tay nhỏ mềm là thanh quý, người có tay thô cứng là hạ tiện. Người có tay như bàn chân của gà thì không có trí tuệ, như móng lợn thì ngu đần, mu bàn tay lộ gân là người gian khó. Người có tay trái ngắn ít tài năng, người có tay phải ngắn giỏi võ lược. Ngón tay nhỏ dài thông minh, ngón tay ngắn thì bần tiện ngu đần. Bàn tay dày khít thì nhiều của, người có bàn tay cứng và ngón tay tách rời nhau là phá bại. Bàn tay trong tướng thuật được coi là hình ảnh thu nhỏ của toàn bộ vũ trụ, phân thành Tam tài, Bát quái, Ngũ hành tương ứng với thiên tượng và nhân sự. Thuyết mệnh lý trong nó được khắc họa khá tỉ mỉ với đặc điểm chủ yếu là vân bàn tay, sau đó là vân mu bàn tay và vân nắm tay, vân ngón tay. Trong Ngọc quản chiếu thần cục của Tống Tề Khưu thời Nam Đường liệt kê 72 loại vân bàn tay, mỗi loại đều có các ca quyết, được các thuật sỹ đều coi là pháp điểm, lưu truyền rộng khắp.
Thuật xem tay cổ đại Trung Quốc xuất hiện vào khoảng thời Xuân thu cùng với thuật xem tướng mặt. Ban đầu là xem tổng thể chân tay, sau là xem bàn tay, tiếp đến xem ngón, xem vân, dần dần phát triển thành một tướng pháp cực kỳ quan trọng trong tướng thuật. Lý luận tướng tay cổ đại thường kết hợp với lý luận Đông y, học thuyết Âm dương Ngũ hành, Bát quái, từ đó mà có tác dụng trong nhiều phương diện như chẩn đoán điều trị bệnh và dự đoán vận mệnh.
Các nhà tướng thuật cho rằng, bộ phận đầu người đứng đầu trong ngũ tạng, là tổ tông của bách thể. Hình tướng của đầu và vận mệnh của đời người có quan hệ mật thiết với nhau. Từ nghĩa rộng mà nói, tướng đầu cũng bao hàm tướng mặt và tướng xương. Các nhà tướng thuật lấy tỷ lệ Tam đình toàn thân cân xứng làm tiền đề, cho rằng đầu nên cao và tròn, đoan chính mới là tướng đầu phú quý. Thường thì xương đầu nhô lên, tròn trịa là tốt. Da đầu cần dày, trán nên vuông, đặc biệt là xương đầu khá ngắn thì nên dày, trán hơi dài thì nên vuông. Đỉnh trán nhô lên hoặc trên đầu có góc cạnh đều báo hiệu cả đời phú quý. Trán lõm xuống chủ về đoản mệnh. Da dầu, trán mỏng thì cả đời cùng khốn, gian nan. Tóc thưa, da mặt mỏng căng, đầu nhỏ mà cổ dài, đầu cong như rắn đều là tướng bần tiện, không tốt. Ngoài ra, không nên lắc lư đầu, khi ngồi không nên cúi đầu, bởi vì đây không phải tướng tốt.
Trong tướng thuật cũng so sánh đầu người và động vật để đoán vận mệnh. Có sách chép: “Đầu vuông như đầu trâu thì giàu có. Đầu hổ hàm én thì phúc lộc tự đến. Đầu voi cao rộng thì phúc lộc lâu dài. Đầu tròn thô như hổ thì phú quý có thừa. Đầu con chương (giống con hươu) mắt chuột thì đừng cầu phúc lộc. Đầu rắn dẹt mỏng thì của cải ít”. Cũng chính là nói, đầu người giống đầu trâu, hổ, voi không giàu thì sang quý, còn đầu con chương, con rắn không phải tướng tốt.
Tóc mọc như thế nào có liên quan đến thông tin về vận mệnh. Tướng thuật cho rằng, người có tóc như núi có cây cỏ. Cây cỏ quá rậm rạp thì gò núi sẽ bị che lấp, không nhìn rõ. Do đó tóc nên dày, mềm, nhỏ, ngắn và sáng bóng, sáng đẹp và có mùi hương. Như vậy mới là tướng quý. Màu sắc tóc vàng hoặc đỏ thì vận mệnh hung hiểm. Tóc thô cứng giống dây thừng thì tính cách mạnh mẽ, cô độc. Tóc bết và có mùi hôi thì nhiều khốn đốn và bần tiện. Tóc rối như vón cục thì tính tình gian tà và nghèo khổ. Vị trí viền tóc có nhiều tóc thì bần tiện cả đời. Viền tóc cao thì tính tình hiền hòa. Tóc phía sau gáy cao thì tính tình hiểm ác, cô độc. Tóc dày thì nhiều huyết khí, tóc thô, khô chứng tỏ huyết khí không thực hoặc ít. Vẫn chưa đến 40 tuổi mà tóc đã bạc gọi là huyết hư, là điển hình của người chưa già đã hư tổn. Người như vậy khó trường thọ.
Nốt ruồi trong tướng thuật bao gồm nốt ruồi đen và nốt ruồi son. Người xưa cho rằng nốt ruồi có liên quan mật thiết đến sang hèn, cát hung. Tương truyền, Hán Cao Tổ Lưu Bang trên đùi trái có 72 nốt ruồi đen, đây là tướng mạo của bậc đế vương. Người xưa xem nốt ruồi thường dựa vào vị trí trên hình thể mà phân thành: Nốt ruồi trên mặt, nốt ruồi trên thân và nốt ruồi trên chân tay, mỗi cái đều có thuyết mệnh lý tương ứng. Trong 3 khu vực lớn đó, phần được coi trọng nhất là xem nốt ruồi trên đầu mặt, ngoài ra nốt ruồi của nam nữ đều có điềm báo cát hung khác nhau.
Các nhà tướng thuật cho rằng, một người có nốt ruồi như trên núi có cây cối, trên lục địa có đỉnh núi, gò đồi. Nếu đất trên núi màu mỡ thì cây cối có cành lá tươi tốt. Nếu trên đất toàn bụi bẩn thì hình thành những gò đống không đều nhau. Do đó, người tốt sẽ có nốt ruồi đẹp thể hiện sự cao quý, người có bản chất xấu sẽ có nốt ruồi ác thể hiện sự đê hèn. Do đó, các nhà tướng thuật cổ đại thường lấy vị trí, số lượng, màu sắc của nốt ruồi để dự đoán cát hung, bần tiện của con người.
Thường thì nốt ruồi mọc ở vị trí hiển lộ đa phần mang ý nghĩa không tốt, mà mọc ở chỗ kín đáo thì phần lớn là cát lợi. Nốt ruồi trên mặt đều không cát lợi. Đúng với luận điểm “đầu không có xương ác, mặt không có nốt ruồi là tốt”. Đồng thời, màu sắc của nốt ruồi khác nhau cũng có điềm báo khác nhau. Nếu là nốt ruồi có màu đen như sơn hoặc đỏ như son đều là tốt. Nếu trên mặt một người có nốt ruồi đỏ nhạt thì nhiều chuyện thị phi, nếu trên mặt có nốt ruồi trắng chứng tỏ nhiều tâm sự, sẽ gặp tai ương hình phạt. Nếu trên mặt có nốt ruồi màu vàng thì thường hay đãng trí. Trên trán có nốt ruồi thành hình thất tinh là người có vận mệnh sang quý. Nếu nốt ruồi mọc ở Thiên trung, Thiên đình, Tư không hoặc phương hại cha hoặc phương hại mẹ, hoặc phương hại cả cha mẹ, đều là tướng hung họa. Nốt ruồi ở trên 2 tai là trí tuệ. Nằm ở trong tai là trường thọ. Nằm ở Thùy châu là người có cuộc sống giàu có. Nằm ở nhĩ huyền là trộm cắp. Nằm ở trên mắt là người gặp cảnh nghèo hèn. Những luận đoán này của người xưa có phần khiên cưỡng, thiếu căn cứ.
Lão Tử nói: “Hợp bão chi mộc, sinh vu hào mạt, cửu tầng chi đài, khởi vu luỹ thổ, thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ”. Chân tuy ở dưới cùng của thân thể nhưng khả năng chống đỡ lớn nhất, có thể giúp chúng ta đội trời đạp đất. Do đó, tướng thuật Trung Quốc truyền thống cũng chú trọng tới đặc trưng của bộ phận này để đoán vận thế. Tương truyền, gian thần đời Tống là Tần Cối có chân dài. Một nhà tướng pháp nhìn thấy Tần Cối liền nói: “Người này phá nước hại dân, thiên hạ đều chịu hoạ, nhiều quân tướng chịu chết dưới tay ông ta”. Về sau lời nói của nhà tướng pháp quả nhiên ứng nghiệm.
Thông thường mà nói, chân nên dài, đoan chính, rộng, nhỏ, mềm mại mới là tướng phú quý. Chân lệch, gầy, hẹp ngang, thô cứng là tướng bần tiện. Chân tuy to rộng nhưng lại gầy và mỏng cả đời bần tiện. Tuy chân mập dày nhưng rộng và ngắn thì cả đời cùng khổ. Người có gót chân hồng thì con cháu được nhờ phúc. Gót chân bằng phẳng thì ngu đần, nghèo khổ. Ngón chân nhỏ dài thì lương thiện trung thành. Ngón chân đoan chính và đều thì tính tình hào phóng. Chân mập và vuông vắn thì có nhiều gia tài. Tóm lại, chân quý nhân nên nhỏ và dày, chân tiện nhân thì mỏng và to.
Thường cho rằng, gan bàn chân không có đường vân thì sự sang hèn ngu khác biệt rất lớn. Gan bàn chân không có đường vân là tướng ngu đần, hạ tiện. Gan bàn chân mềm mịn và nhiều đường vân là phú quý. Nếu lòng bàn chân thô cứng và ít đường vân là bần cùng. Tướng thuật cũng phân loại đường vân dưới chân, đồng thời gắn cho nó những ngụ ý khác nhau. Dưới chân có vân rùa thì phải gánh vác trọng trách dưới chân có vân hình chim thì giữ chức quan trọng. Ngón chân đều có vân sách thì làm chức thừa tướng hoặc ngự sử. Dưới chân có vân chữ thập làm lục bộ thị lang. Dưới chân có đường vân như thêu gấm thì nhiều lộc. Gan bàn chân có đường vân như hình cây thì nhiều gia tài, có vân như hình chiếc kéo thì nhiều của cải. Ngược lại, nếu 10 ngón chân không có đường vân chủ về người phá hại gia tài.
Các nhà tướng thuật cho rằng, hình thần có dư là tượng trưng cho có phúc, hình thần thiếu là nguồn gốc của tai hoạ. Do đó khi xem tướng quan sát hình thần của một người có dư hay không đủ là căn cứ quan trọng dự đoán vận mệnh cát hung.
Hình là chỉ hình tượng bên ngoài của con người. “Hình có dư” là chỉ hình tướng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của tướng lý, tướng thuật lấy đó làm tướng tốt nhất. “Hình không đủ” là hình tướng yếu ớt hoặc khuyết lõm, không phù hợp yêu cầu của tướng lý. Tướng thuật Trung Quốc cổ đại xuất phát từ lý luận thiên nhân hợp nhất cho rằng, tướng con người phù hợp với thuộc tính tự nhiên là nguyên tắc cao nhất của tướng lý.
Thần và hình chỉ tinh thần, khí chất của con người. Tướng thuật cho rằng, tinh thần khí chất của con người có trong đục, hiền dữ, hòa nhược, hư thực và tàng lộ. Hình là biểu hiện bên ngoài của thần, muốn biết thần trước tiên phải xem hình, tinh hợp sinh thần, thân sinh ra thì hình sẽ đầy đủ. Cả hai dựa vào nhau, gắn bó mật thiết. Xem thần là thông qua quan sát đặc trưng tinh thần, khí chất của một người tốt hay xấu để phán đoán thọ yểu, sang hèn và tính cách. Tướng thuật còn lấy mắt làm cung Du thần, đặc trưng khí chất tinh thần tốt xấu luôn luôn tập trung phản ánh trên thần mắt. Do đó, các thuật sỹ trong lịch sử đều đặc biệt chú ý quan sát thần mắt của con người.
Khí sắc chỉ màu sắc trên mặt và hình thể. Xem khí sắc chính là thông qua màu sắc trên mặt và cơ thể đoán hiền ngu, thọ yểu, sang hèn của con người.
Khí sắc là kết hợp “khí” và “sắc”. Quan sát khí và sắc, tổng hợp lại để xem diện mạo tinh thần của một người là nội dung quan trọng của tướng thuật cổ đại. Tướng thuật cho rằng, quan hệ giữa khí và sắc giống như dầu và đèn, dầu trong thì đèn sáng mà dầu đục thì đèn tối, dầu hết thì đèn tắt. Con người cũng như vậy, khí tốt thì sắc sáng, khí thông thì sắc nhuận, sắc nhuận thì hoa mỹ cuốn hút. Ngược lại, bẩm khí đục khô thì sắc u tối. Cho nên, khí thông thuận thì sắc nhuận hòa là tướng tốt, chủ về phúc thọ, vinh hoa. Khí thiên lệch thì sắc chẳng thể cân bằng, khí đình trệ thì sắc khô, tim thương tổn. Khí gấp không đều là tướng mệnh mỏng bạc, bần tiện và không thọ. Hệ thống mệnh lý của khí sắc rất phức tạp, có luận thuyết khí sắc của Cửu châu Bát quái can chi dùng khí sắc phối hợp với Âm dương Ngũ hành và bốn mùa năm phương để luận về vận mệnh, có luận thuyết lấy khí sắc kết hợp 24 tiết lệnh, còn có luận thuyết lưu niên vận khí bộ vị chuyên lấy 13 vị trí để đoán cát hung. Có một số thuyết khí sắc kết hợp với lý luận Đông y, do đó mà lưu truyền rộng rãi trong nhân gian.
Khí sắc bốn mùa là chỉ khí sắc của các mùa trong một năm. Khí sắc của con người trong mỗi mùa khác nhau chủ về cát hung cũng không giống nhau. Mỗi mùa đều có màu sắc riêng của mình, cũng chính là chính sắc, như mùa xuân là màu xanh, mùa hạ là đỏ, mùa thu là màu trắng, mùa đông là màu đen. Quan hệ của khí sắc khác và chính sắc là dựa vào vượng, tướng, hưu, tù, tử do nguyên lý sinh khắc Ngũ hành tạo thành. Có cùng đạo lý với thuật đoán mệnh dựa theo bát tự. Ví dụ, mùa xuân thì xuân thuộc Mộc, có chính sắc là màu xanh, do đó Mộc vượng hoặc màu xanh vượng, còn lại lần lượt là Hỏa (đỏ) tướng, Thủy (đen) hưu, Kim (trắng) tù, Thổ (vàng) tử. Mùa hạ thì Hỏa vượng, Thổ tướng, Mộc hưu, Thủy tù, Kim tử. Mùa thu thì Kim vượng, Thủy tướng, Thổ hưu, Hỏa tù, Mộc tử. Mùa đông Thủy vượng, Mộc tướng, Kim hưu, Thổ tù, Hỏa tử. Ví dụ, trong mùa xuân mà mỗi vị trí trên mặt có màu xanh đỏ thì chủ về vượng tướng, thường đều là cát lợi, mà có màu trắng vàng thì hưu tử. Do đó phần lớn không cát lợi. Cứ theo đó mà luận đoán.
Khí sắc của một người khó quan sát. Do đó xem khí sắc cần lựa chọn thời gian thích hợp, thường thì sau khi gà gáy, trước khi trời sáng, lúc sáng sớm là tốt nhất, bởi vì lúc này tâm của con người yên ổn, khí huyết cũng chưa rối loạn.