Tư vấn mệnh lý

Xem tướng mặt: Từ cốt pháp đến đường vân trên trán, khám phá bí ẩn về vận mệnh

Xem Một Số Đặc Điểm Khác Trên Khuôn Mặt

1. Cốt pháp xem sang hèn

Quý tiện cuộc đời con người đều được quyết định bởi cốt pháp. Con người nhận được khí thiên địa tự nhiên, kết thành bào thai, hiền minh hay ngu muội, cao quý hay hạ tiện, tuổi thọ, hung cát của họ đều được quyết định bởi cốt pháp. Xương là vua, thịt là bề tôi, xương thịt bổ trợ cho nhau thành sang quý. Người có khớp xương nhô lên, cơ thịt bạc nhược có nghĩa là địa vị thấp, cho nên sự bần tiện hay phú quý của một con người đều được quyết định bởi người đó tiếp nhận khí tự nhiên, cho dù là quỷ thần cũng không thể biến đổi, hoặc là thánh hiền cũng không dễ mà thay đổi được.

Xương gò má hiển lộ kéo dài cho tới sát tại được gọi là xương ngọc lương, chủ người trường thọ.

Tống Tề Khưu đã viết trong sách Ngọc quản chiếu thần cục rằng, khớp xương được dùng kim thạch (vàng đá) làm vật tượng trưng, phải thanh cao mà không được thô lộ, phải tròn trịa mà không thô cứng. Người béo không nên béo tới mức quá nhiều thịt, người gầy cũng không nên gầy trơ xương. Xương và thịt phải cân xứng với nhau, thần khí và sắc mặt cũng có sự hỗ trợ hài hòa, đó là tướng sang quý. Người có khung xương phát triển không đầy đủ, không phải là yểu mệnh thì cũng là bần cùng. Bên trái gọi là Nhật giác, bên phải gọi là Nguyệt giác, có đầu xương nhô lên gọi là xương kim thành, người có tướng xương này có thể làm quan đến hàng công khanh. Trên Ấn đường có xương gồ lên, hướng lên tới Thiên đình, đó gọi là xương thiên trụ. Từ Thiên đình có xương gỗ lên tương thông tới đỉnh đầu, đó gọi là xương phục tê. Người có những hình xương này đều có thể làm quan tới hàng tam công. Tuy nhiên, người có những hình xương như vậy cũng phải có ngoại hình tương xứng, cân đối với các bộ vị trên cơ thể, nếu không thì dù có phúc có thọ nhưng cũng chẳng thể hiển quý. Xương gò má hiển lộ kéo dài cho tới sát tại được gọi là xương ngọc lương, chủ người trường thọ. Đoạn xương từ cánh tay tới khuỷu tay gọi là long cốt, tượng trưng cho vua của một nước, phải dài mà to; từ khuỷu tay tới cổ tay gọi là hổ cốt, tượng trưng cho bề tôi, phải ngắn mà nhỏ. Về mặt tổng thể, khung xương phải cao mà phát triển thanh thoát, tròn trịa mà vững khung hăng mà kích thước phù hợp, chắc chắn mà không thô lậu, những yếu tố này đều là tướng cách của sự vững chắc chân thực.

Trong Thanh giám có viết: Xương gò má có 4 kiểu như sau: Một là xương gò má hướng ra sau kéo dài tới sát tai nhưng lại không vượt qua tai, điều này cho thấy tướng trường thọ; hai là xương gò má kéo dài áp sát đến bộ vị Thiên thương; ba là hai bên xương gò má nhô cao tạo thành Trung nhị phủ; bốn là xương gò má nhô lên kéo dài tới tận tóc mai. Người có 3 hình dạng xương gò má sau có thể trở thành quan chức trong lĩnh vực giám sát hoặc quan lớn chủ quản một phương. Trong Tạo thần lục viết: Sống mũi cao, xương gò má đầy đặn là tướng đoan chính.

Trong Thông tiên ngữ viết: 2 xương gò má đầy đặn như ngọn núi cao, ngọc chẩm nhô cao, người sinh ra đã có tướng cốt này sẽ trở thành hiền thần của triều đình.

Còn trong Thành Hòa Tử thì viết: Mặc dù lộc cốt gồ lên nhưng không phải cao, mặc dù mặt to nhưng ít thịt thì chỉ có thể trở thành quan lại bình thường. Người có lông mày mỏng mà thưa, mắt thanh tú, thần khí khá thanh cao có thể trở thành sỹ tử. Người có da thô ráp, khung xương nặng nề, thần khí vẫn đục sẽ trở thành nông dân. Người có khung xương thanh thoát nhẹ nhàng mà cơ thịt bạc nhược thì sẽ trở thành thợ thủ công. Người có khung xương thô to mà cơ thịt đầy đặn sẽ trở thành thương nhân. Người có cốt khí đôn hậu, tinh thần nhàn hạ sẽ gặp nhiều niềm vui trong cuộc sống. Người có khung xương thanh tú, cơ thịt bạc nhược, tinh thần mệt mỏi như vừa mất của thì cả đời sống trong âu sầu, phiền muộn.

Sách xưa viết: Nếu tất cả mọi người sinh ra có xương ngọc chẩm đều là tướng quý. Nếu tăng sỹ có ngọc chẩm thì dù không có quan lộc, nhưng cũng có thể trường thọ. Xương chẩm sau của một người chỉ là hơi nhô cao đều cho thấy có tài lộc và trường thọ. Nếu không có cao thấp rõ ràng thì khó có được lộc thọ. Người phụ nữ có ngọc 4 chẩm cũng có được một đời phú quý.

Linh đài bí ngữ có viết: Ban đầu, trên đầu có 13 loại xương quý: Xương hoa cải biểu thị thanh cao tôn quý, kính trọng thần thánh, kính cẩn tăng đạo. Xương phụng trì thiên về viết văn, tính tình hiền dịu, nhẹ nhàng. Xương liên phong là sự tôn trọng. Xương hằng sơn là tiếp cận quyền quý, thanh nhàn, kết giao nhiều với tăng sỹ, trong nhà có nhiều nô bộc, từ nhỏ đã có tiếng tăm. Xương thấu đỉnh thể hiện sự tôn quý nhưng biến động bất định. Xương hoàn giác tỉnh sẽ hiển quý trên lĩnh vực văn đàn. Xương hoàn giác phải sẽ trở thành danh gia trong võ lâm. 2 xương bách hội, sẽ đạt được tài lộc từ khắp nơi tụ về. 2 xương hổ nhĩ biểu thị tính cách dũng cảm, kiên cường. 2 xương ngọc đường biểu thị sự trường thọ.

2. Xem tướng đầu

Tướng đầu: Đầu là bộ vị quan trọng

Đầu nên đầy đặn cao rộng, nổi cao lộ rõ

Đầu là bộ vị quan trọng nhất, là chủ tể của toàn bộ thân thể. Xương đầu quan trọng phải đầy đặn, nổi cao lộ rõ. Người có trán ngắn thì da nên dày dặn, nếu trán dài hình trán nên vuông. Nếu người có đỉnh trán lộ rõ là mệnh cao quý. Nếu trán thấp lõm là mệnh đoản thọ. Nếu da trán mỏng chủ là người bần tiện. Nếu đỉnh đầu lệch bên phải, người đó sẽ khắc hại mẹ mà đỉnh đầu lệch bên trái sẽ khắc hại cha. Nếu trước sau tai có lộ xương, xương đó gọi là thọ cốt, nếu thọ cốt nổi cao người đó sẽ trường thọ, nếu thọ cốt thấp lõm người đó chủ yểu vong. Nếu trên huyệt thái dương có xương gọi là xương phù tang, trên tai có xương gọi là xương ngọc lâu, người như thế chủ phú quý. Người có mép tóc thấp, người đó trời sinh ra vốn ngu đần, lại đoản mệnh. Nếu mép tóc rất cao, người như thế tài giỏi, lại được trường thọ. Nếu tóc ở sau gáy cao, người đó có tính tình quái dị. Người có đầu nhỏ, tóc lại rất dài thường sẽ phải tha hương kiếm sống. Nếu tóc vàng mà khô, người đó không bần tiện thì vận mệnh cũng chẳng thể dài lâu. Người tóc có sắc đỏ hoặc trắng, chủ bần cùng, cô quả.

Đỉnh đầu vuông tròn, trán bằng đầy đặn là mệnh quý hiển

 Nếu bộ vị Thái dương nổi cao, người đó có thể làm quan lại được trường thọ. Nếu tóc thưa mỏng, da mặt cũng mỏng chủ nghèo khổ. Nếu hai bên trái phải đầu đều lệch, người đó sẽ khắc hại cha mẹ.

Người có đầu ngắn, cổ dài thường rất nghèo khổ. Nếu đầu cong tựa đầu rắn, người đó chẳng đủ cơm ăn áo mặc. Nếu dầu người ngắn lại tròn thường là người được phúc lộc không ngừng. Nếu bụng rủ xuống thấp, chủ người làm nô bộc. Nếu người đầu nhỏ mà tóc dài, chủ về mất tung tích. Người đầu dài nhưng lại hẹp, chủ vận mệnh chẳng thể dài lâu. Nếu tóc mọc lấn đến tai, chủ người bần cùng đói khổ. Nếu tóc cuộn tròn tựa hình xoắn ốc, chủ người gặp thương tật. Nếu tóc người sớm đã trắng, người đó có thể gặp hung họa. Nếu tóc trắng sau đó biến thành đen, là tướng tốt lành. Nếu tóc dày người đó rất khó làm đến chức thừa tướng. Nếu tóc đột nhiên mọc dài người đó không khỏe mạnh. Thông thường, tóc tốt nhất là đen lại sáng bóng, dày dặn và khô. Nếu đỉnh đầu chia làm 2 người đó tất sẽ khắc hại cha.

Xương đỉnh đầu và xương mũi nối liền nhau, con cháu nhiều phúc

Người có đỉnh đầu vuông tròn, trán bằng đầy thường được phú quý. Nếu đỉnh đầu có xương lộ ra nối với xương mũi, người có hình tướng như thế là mệnh quý hiển, được bái tướng mà con cháu sau này cũng không chịu cảnh nghèo hèn.

Nếu có xương ngọc chẩm, đó chẳng thể nào là người hạ tiện. Nếu đầu tựa đầu thỏ, tính cách người đó ngông cuồng, khinh bạc. Nếu từ khi còn nhỏ đã có lông trắng, chủ người này gặp nhiều tai họa. Nếu hai bên tóc mai mỏng thưa, tính cách người này đa phần không tốt. Nếu từ giữa giữa đỉnh đầu hướng xuống thấp, đó là tướng hiền nhân. Nếu nữ có đầu dài, tóc lộ sắc xanh, người đó có thể được gả vào nhà quý nhân.

Tóc đen mà nhỏ, vinh hoa phú quý

Nếu tóc người xanh đen nhỏ dài, đó là hình tướng vinh hoa cao quý. Nữ có tướng này chủ có thể trở thành phi tử. Người con trai có tướng này có thể làm đại quan trong triều đình. Nếu tóc mai hai bên thưa mỏng chủ thích hại người khác. Nếu khi còn nhỏ đã có tóc trắng, người đó sẽ khắc hại đến cha mẹ. Nếu trán rủ xuống hình tròn, trên mặt lại có điểm rủ thấp xuống cổ, người như thế tính cách phong lưu đa tình, thậm chí dẫn đến hại vợ.

Tướng của chẩm cốt: Xương này như ngọc, có thể biết vinh đạt hiển quý

Trong cốt pháp của người quan trọng nhất là xương đầu và xương trán. Chẩm cốt, xương sau đầu, của người trưởng thành giống như ngọc trong đá núi, ngọc trai trong biển, có thể quyết định vinh hiển hay không. Do đó có thể nói, cho dù con người có cốt pháp tốt thì cũng cần có tướng mạo tương ứng mới được, chỉ có thần khi thanh thoát mới có thể hưởng thụ thiên lộc.

Chẩm cốt: Hình dạng khác nhau thì mệnh không giống nhau

Tướng xương có thể quyết định chức quan

3 xương đều có hình tròn thì gọi là Tam tài chẩm, chủ về được phong làm quan Sử.

4 góc đều có xương nhô lên mà ở giữa cũng nhô lên thì gọi là Ngũ nhạc chẩm, chủ về được phong hầu.

Có 2 xương nhọn nhô lên gọi là Song long cốt chẩm, chủ về được phong làm tiết khu tướng quân.

Bốn bên cao, ở giữa thấp gọi là Xa trục chẩm, chủ về được phong làm công hầu.

Có 3 xương, có một xương dựng thẳng gọi là Liên quang chẩm, người có tướng xương này thì tối thiểu cũng làm quan nhị thiên thạch, nhiều thì sẽ thành tướng quân đảm nhận trọng trách trong triều đình.

Có 1 xương cong vòng lên trên là Yển nguyệt chẩm, chủ về đường quan lộ hanh thông.

Có 1 xương cong vòng xuống dưới được gọi là Tương bội chẩm, chủ về làm chức quan nhỏ.

Có 1 xương ở trên, 2 xương xếp ở dưới gọi là Tam tinh chẩm, chủ về đảm nhiệm chức quan lưỡng phó chế.

Xương ở bốn xung quanh đều nhô lên và có một góc xương gọi là Sùng phương chẩm, chủ về làm chức nhị thiên thạch, lớn hơn thì là tuần đài.

Có một xương nhô lên mà tròn gọi là Viên nguyệt chẩm, chủ về có thể làm chức vị thanh nhàn ở điện quán.

Nếu là bên trên hình vuông, dưới hình tròn thì gọi là Thùy chẩm, chủ về được phong là viên ngoại lang.

Trên và dưới đều tròn và có góc cạnh giống như chiếc đĩa thì là Ngọc tôn chẩm, chủ về làm khanh tướng, ít nhất cũng làm thích sử

Xương chẩm giống 2 hình mặt trăng cong quay lưng vào nhau thì là Bội nguyệt chẩm.

Người có xương ngọc chẩm đều là quý tướng

Xương chẩm nhô lên thành hình chữ “nhất” (-) chủ về người coi trọng thành tín, tính cách cứng rắn, mạnh mẽ.

Xương chẩm phát triển thành vòng gọi là Suất phúc chẩm, chủ về 3 đời đều phú quý.

Xương chẩm phát triển sang trái gọi là Tả trường chẩm, hướng lệch sang trái gọi là Tả tản chẩm, lệch sang phải là Hữu tản chẩm, đây đều chủ về người có phú quý và trường thọ. Xương chẩm có hình chữ “tam” (), chủ về có nhiều việc vui.

 Trên xương chẩm có 2 xương nối liền gọi là Liên chẩm, cũng gọi là hoàn chẩm, nếu nối liền với phần xương ở sau tai thì sẽ phú quý, trường thọ, nhưng tính cách không tốt.

Xương chẩm phát triển giống quả trứng gà thì gọi là Kê tử chẩm, chủ về tính cách nóng nảy, hay tự cho mình là đúng.

Xương chẩm giống hình chữ “sơn” thì gọi là Sơn tự chẩm, cũng gọi là hoành sơn nhất tự chẩm, chủ về thành thực, tính cách cương cường.

Xương chẩm phát triển giống huyền châm thì gọi là Huyền châm chẩm.

Xương chẩm phát triển giống như chiếc kim rủ xuống thì gọi là Thùy châm chẩm, cũng gọi là ngọc chẩm, chủ về trường thọ.

Xương chẩm giống như chén rượu gọi là tửu tôn chủ về có quý, có lộc nhưng sẽ không có quan chức.

Xương chẩm thành hình chữ “Thượng” (), gọi là Thượng tự chẩm, chủ về chí khí cao, dũng cảm, nhiều thành bại, ít nhiều quý khí.

Trong sách xưa có viết: Chỉ cần có xương ngọc chẩm thì đều là hình tướng phú quý. Như tăng đạo tuy không phú quý nhưng có xương ngọc chẩm đều trường thọ. Có xương ngọc chẩm mà hơi nhô lên thì sẽ có phúc lộc và trường thọ, nếu xương này vừa bằng vừa 1 lõm thì người này phúc thọ đều không được lâu.

Xem xương chẩm biết thêm vận mệnh

Xương chẩm lồi lên giống như bụng trống gọi là Yêu cổ chẩm, chủ về tiểu quý, nhiều thành bại.

Xương chẩm nhô lên thành hình ngọc trai gọi là Châu chẩm, chủ về sẽ phú quý nhưng không thực mà chỉ là hư danh.

Xương chẩm có hình chữ “đinh” (T) gọi là Đinh tự chẩm, chủ về tính tình khoan hòa, có thể phú quý.

Có 3 xương thẳng nhô, 1 xương nằm ngang ở dưới đỡ gọi là Sơn tự chẩm, chủ về thông minh, phú quý, trường thọ.

Có 1 xương hình tròn, có 1 xương hình vuông gọi là Điệt ngọc chẩm, chủ về hưởng vinh hoa phú quý.

Có 1 xương nhô lên mà nhọn gọi là Tượng nha chẩm, chủ về có thể nắm quyền binh tướng.

Xương chẩm nhô lên phân thành 4 góc gọi là Huyền châm cốt, chủ về được phong làm tế sát võ thần.

Có một xương cắt ngang gọi là Nhất dương chẩm, chủ về phát tài lớn, trường thọ.

3. Xem tướng trán

Xương trán gồ lên đặc biệt: Quan vận hanh thông

Người bần tiện, đơn độc thường trên trán có nếp nhăn ngang chằng chịt. Trán có nếp nhăn ngang, đa phần là mệnh sầu khổ. Nếp nhăn ngang xuyên qua trán là người đa sầu, đa cảm, cho thấy bần cùng, khốn khó, hạ tiện, cô đơn.

Người ở vào vị trí vương hầu, trán có thế như ngắm trăng. Chính là nói trên trán có 2 đỉnh, giống như mặt ngẩng lên ngắm trăng.

Người ở vị trí tam công trên trán có xương huyền tê. Xương huyền tê nằm trên Phúc đường, nhô cao tới tận Sơn lâm. Tam công là chỉ thái sư, thái phó, thái bảo.

Người “đỉnh túc tam lập” có thể đạt được tới hàng tam công. Đỉnh túc tam lập là chỉ trên trán có xương phục tê, xương nhật nguyệt nhô lên giống như 3 chân. Người có tướng cách này sẽ lên tới vị trí tam ông. Lý Cố thời Hán có tướng mạo đặc biệt này, xương nhật giác, xương biên địa, xương nguyệt giác và xương phục tê nhô lên, lòng bàn chân có đường chỉ hình mai rùa, sau đó ông đã trở thành thái úy. Hằng Ôn Tựu thời Tấn có khung xương kỳ dị, được cấu thành từ 3 loại xương quý là hổ cốt, long cốt, phục cốt xuyên suốt tới đỉnh đầu.

“Ngưu giác bát phương” là chỉ trán có 8 loại xương chính là: Xương phục tê, nhật giác, nguyệt giác, biên địa, phúc đường, long giác, ngưu giác, Ấn đường. Người có 8 loại xương này có thể thăng quan tiến chức, vận mệnh thuận thông. Nếu vị trí này cách xa đầu khoảng một tấc, nhậm chức quan thị lang, sống trên 100. Nếu xương nhật giác, nguyệt giác thông thẳng lên đỉnh đầu, thân thần và khí sắc đối xứng, thanh và âm đối xứng, đó là tướng quý.

Trán: Nên tròn, nhô cao

Muốn quan sát tướng cách của một người trước tiên phải xem trán. Con người được thừa hưởng Tam tài của thượng đế, trán là thiên (trời), cằm là địa (đất), mũi là nhân (người). Thiên tròn là quý. Trán nằm trên toàn bộ phần đầu, nằm ở vị trí quân vương, cho nên tướng thuật Trung Quốc đã so sánh đem nó ví với thiên.

Trong Quy giám có viết: Người có trán nhô lên tròn trịa như bao trùm là tướng quý nhân. Trên trán có nếp nhăn hình trăng lưỡi liềm, cho thấy tướng làm đại quan nhiều bổng lộc. Trên trán có nếp nhăn như sừng trâu có thể làm tướng quân. Từ Thiên trung hướng xuống có nếp nhăn kéo thẳng xuống Ấn đường, gọi là “Huyền tê lý” có thể phong tước phong hầu. Người trên trán có “Long tê lý” cũng có thể phong hầu. Trên trán có 2 nếp nhăn theo chiều dọc có độ dài 3 tấc trở lên, có thể năm đó sẽ được làm đại quan. Trên trán có 3 nếp nhăn ngang, thuở nhỏ sẽ khắc hại cha. Trên trán có nếp nhăn chằng chịt chịu khổ tới già. Trên trán có nếp nhăn ngoằn ngoèo gọi là “Xà lý”. Người có nếp nhăn này khi xuất ngoại có thể sẽ phải bỏ mạng dọc đường. Trên trán có nếp nhăn nông chủ về cuộc sống đói khổ bần cùng. Thiên trung có nếp nhăn từ mũi tới sau gáy, tương ứng với ngọc chẩm, có thể phong hầu. Trên phần Thiên trung có 4 nếp nhăn ngang, có thể được phong làm đại sứ biên cương, bổng lộc dồi dào. Hai bên trán có nếp nhăn đi thẳng tới mép tóc, gọi là “Hàm bích”, là tướng làm quan thái thú, được hưởng bổng lộc. Nếp nhăn trên trán tổ thành 2 chữ “điền” , chữ  “thân” cũng chủ phú quý.

Xương Phụ giác gồ lên và dài chủ làm quan tới hàng tam phẩm, thường ở bên cạnh thiên tử, cũng có thể được đề bạt, cất nhắc. Nếu là phụ nữ thì có thể là hoàng hậu hoặc phi tần. Thiên trung thu lại như hình lưỡi dao, có thể phong hầu. Thiên trung đoan chính, cao quý mà trường thọ. Nếu tóc rủ xuống quá trán chủ không được đưa tang cha me (yếu mệnh). Trán hẹp, ít con. Có câu: Mặt ngắn trán hẹp, tới già cũng phải sống trong cảnh bần cùng, khốn đốn. Trán rộng mặt vuông, phú quý vô cùng. Đầu to trán vuông, phú quý hưng vượng. Nhỏ tuổi mà phần trước trán nhô lên, con đường học hành sớm thuận lợi. Góc trán nhô lên cao, chức vị cũng ngày càng trọng yếu. Thiên trung đầy đặn, rộng, thành tựu chính trị hiển hách.

Trong Linh đài bí quyết viết: Trán là bộ vị cao nhất, quan trọng nhất trên cơ thể con người. Trong Ngũ nhạc thì trán là Nam nhạc Hành sơn, trong Ngũ phương thì trán là phương Nam. Trong Tam tài trán là trời. Ngoài ra, trán còn là bộ vị quan trọng của cơ thể. Trên và dưới trán có tất cả 5 phần được gọi là Thiên trung, Thiên đình, Tư không, Trung chính, Ấn đường. Chúng được phân biệt chủ quân quý, tiện, cát hung của con người. Hình dạng của trán như chiếc đấu, rộng mà bằng phẳng, biểu thị có tướng quý. Bộ vị trên 2 lông mày khoảng 1 tấc có xương gọi là xương thiên giác, chủ về danh vị phẩm lộc cao. 2 lông mày nối nhau được gọi là giao mi, báo hiệu người này phải dựa vào quý nhân mới có thể vinh hiển. Trán lệch sang trái khắc cha, lệch phải hại mẹ. Tóc mai mọc về trước cho thấy thuở nhỏ mắc nhiều bệnh tật. Trán nhọn mà ngắn, không được làm quan. Trán bị thương lồi lên, có nạn lao tù. Trán hẹp, không cô độc thì cũng bần hàn. Trán rộng, dù không được làm quan cũng có quyền thế, tóc đen mượt, dày dặn, người như vậy có tài năng nhưng thanh nhàn, tiếp cận quyền quý nhưng không sung túc.

Trong Nguyệt Ba động trung ký viết: Muốn xem tướng trước tiên phải quan sát bộ phận đầu của người đó. Đầu là chủ của ngũ tạng, là bá chủ của các bộ vị trên cơ thể, bốn phương tám hướng đều phải đoan chính. Tai trái là hướng Đông, tai phải là hướng Tây, mũi là hương Nam, Xương ngọc chẩm là hướng Bắc. Gò má trái là hướng Đông Nam, gò má phải là hướng Tây Nam. Các hướng phải đoan chính, tiếp đến lại quan sát tới xương đầu. Có 9 loại cốt pháp là tướng quý. Đầu không có xương khác loại thì khó có thể đoán biết được tướng quý. Gọi là 9 kiểu xương: Một là xương gò má, hai là xương dịch mã, ba là xương tướng quân, bốn là xương nhật giá năm là xương nguyệt giác, sáu là xương long cung, bảy là xương phục tê, tám là xương cự ngao, chín là xương long giác. Đông nhạc, Tây nhạc nhô cao tạo thành xương gò má. Xương gò má nhô cao nối liền với Thiên thương tạo thành xương dịch mã. Nối tiếp với tai đó là xương tướng quân. Gờ mi trái nhô lên là xương nhật giác. Gờ mi phải nhô lên là xương nguyệt giác. Vòm mắt nhô lên là xương long cung. Trên mũi có một xương nhô lên kéo dài tới sau đầu gọi là xương phục tê. Sau tai có một đoạn xương vòng ra phía sau đầu nhô lên là xương cự ngao. Xương hai bên lông mày nhô lên là xương long giác, cũng còn có tên gọi là xương phụ. Có 9 kiểu xương trên đây đều thuộc tướng cách của người làm quan hàng tam phẩm.

Bạch Vân Tử nói: Trán nhọn như dao, đầu vú nhỏ, đàn ông thì là nô bộc, phụ nữ thì sẽ là người lưu lạc phong trần.

Trong Thời hậu ca lại viết: Bộ vị Biên địa lệch không cao, rộng không được một ngón tay đặt vào, người như vậy cả đời không được vinh hoa phú quý.

Tống Tề Khưu nói: Nếu Ấn đường của trán đi lên tới Thiên đình mà có xương gồ lên, người như vậy phát đạt từ nhỏ, hơn nữa còn có được vinh hoa phú quý. Bộ vị Biên địa và Sơn lâm đều phải đầy đặn, nếu lõm xuống là tướng bần tiện. Khi Quách Lâm Tông xem tướng người, cho rằng có Tứ học đường: Một là Quan học đường, mắt là Quan học đường, mắt dài lại thanh tú là quan hiển quý. Hai là Lộc học đường, trán là Lộc học đường, người có trán rộng mà đầy đặn nhô cao, chủ phú quý. Ba là Nội học đường, 2 hàm răng thẳng mà khít, cho thấy người này trung thực tín nghĩa; nếu 2 hàm răng thưa, nhỏ nhọn, cho thấy người này cuồng vong tự đại. Bốn là Ngoại học đường, nằm ở trước cửa tai, nếu đầy đặn, sáng bóng cho thấy tài văn chương xuất chúng lưu danh bốn bể; nếu xám đen như bụi cho thấy là kém cỏi.

Trong Tam phụ tân thư viết: Trên trán có sắc tối mờ mịt, quanh năm gặp nạn, khốn đốn. Khóe mắt có màu xanh đen, người quân tử sẽ bị phá sản, kẻ tiểu nhân sẽ bị hình trượng. Trên bộ vị Bác sỹ thường xuất hiện sắc đỏ, tím, vàng. Phụ nữ mang thai ở bộ vị này nếu xuất hiện màu xanh đen cũng sẽ bị tai ương. Mắt mũi cùng đó mưu sự khó thành. Đồng thời cũng phải cẩn thận khi cưỡi ngựa, đề phòng tai nạn về chân tay. Bộ vị Lực sỹ phải nhô lên, 2 gò má có sắc xanh đen, đàn ông có nạn quan trường, phụ nữ hiếm muộn đường con cái. Khóe miệng có khí đen như khói như sương, mắt, tai, miệng, mũi, Nhân trung, Ngũ quan không tề chỉnh phần đa đều có tai ương. Bộ vị Tang môn dưới mắt, trắng như bột, không những sẽ có chuyện buồn đau khóc lóc mà còn báo hiệu tương lai sẽ bị khốn đốn mà khắc khổ. Ấn đường hiển hiện màu đỏ vàng, cả năm cát tường, nếu không phải là thay triều đổi đại còn có thể triều kiến quân vương. Hai bên Dịch mã trái phải xuất hiện sắc đỏ tía thông lên Thiên thương là điềm báo sẽ có chuyện vui. Màu sắc hai bên cánh mũi thanh khiết cho thấy không có tai họa, thân tâm an lạc.

Mắt là Quan học đường, mắt dài lại thanh tú là quan hiển quý.

4. Bộ vị và khí sắc trên trán

Các bộ vị trên trán: Nên đầy đặn bóng mượt

Người có trán hẹp mà lệch chủ bần tiện lại đoản mệnh, là tướng không tốt. Xương nhật, nguyệt lõm xuống hoặc hẹp ngang, đoản mệnh lại bần tiện. Xương trán mỏng mà ngắn dễ làm chuyện hung ác.

Người có trán cao rộng, vinh hoa phú quý. Nếu còn có thể thấy được xương phục tê chắc chắn có thể làm đại thần trong triều. Xương phục tê bắt đầu từ Ấn đường, kéo đến Thiên trung, có thể nhìn thấy được xương gồ lên, đi thẳng vào mép tóc. Xương phục t&e